Chà bông tôm khô

Lâu nay các bà nội trợ vẫn quen dùng thịt heo, thịt gà làm chà bông. Ở Phú Quốc – Kiên Giang có một loại chà bông làm từ tôm với hương vị rất thơm ngon, được nhiều khách du lịch ưa thích.

Chà bông tôm khô

Chà bông tôm khô

Cách làm chà bông tôm cũng gần giống với chà bông thịt. Chỉ có điều tôm làm chà bông không dùng tôm tươi mà phải là tôm khô. Tôm khô chọn loại con to, ngâm nước cho nở mềm, vớt ra để ráo (nước ngâm tôm dùng để nấu canh rau mồng tơi rất ngon). Để tôm nhanh mềm và đậm đà, trong lúc ngâm có thể cho thêm ít muối vào.

Tôm cho vào cối giã nát, nếu muốn nhanh thì cho tôm vào máy xay. Tôm giã bằng tay sợi chà bông sẽ đẹp và bung nở hơn so với tôm xay bằng máy. Đặt chảo trên bếp, để chảo thật nóng, vặn nhỏ lửa, trút thịt tôm đã giã vào sao (rang). Nếu sao quá lửa chà bông tôm sẽ bị cháy mất ngon, sao non (ít) lửa chà bông tôm sẽ mềm, không khô ráo, dễ chảy nước và khó bảo quản.Lúc sao chà bông tôm nhớ đảo nhanh tay và đều, khi thấy các thớ thịt tôm đã tơi, cho thêm một chút hỗn hợp nước mắm đường vào để tăng thêm phần đậm đà. Tiếp tục sao cho đến khi chà bông tôm khô nổi màu vàng đỏ là được. Để nguội, cho chà bông vào hũ thủy tinh dùng dần.

Chà bông tôm có thể dùng với cơm nắm, bánh mỳ, xôi, bánh bèo…rất ngon. Lâu nay các bà nội trợ vẫn quen dùng thịt heo, thịt gà làm chà bông. Ở Phú Quốc – Kiên Giang có một loại chà bông làm từ tôm với hương vị rất thơm ngon, được nhiều khách du lịch ưa thích.

Cách làm chà bông tôm cũng gần giống với chà bông thịt. Chỉ có điều tôm làm chà bông không dùng tôm tươi mà phải là tôm khô. Tôm khô chọn loại con to, ngâm nước cho nở mềm, vớt ra để ráo (nước ngâm tôm dùng để nấu canh rau mồng tơi rất ngon). Để tôm nhanh mềm và đậm đà, trong lúc ngâm có thể cho thêm ít muối vào.

Tôm cho vào cối giã nát, nếu muốn nhanh thì cho tôm vào máy xay. Tôm giã bằng tay sợi chà bông sẽ đẹp và bung nở hơn so với tôm xay bằng máy. Đặt chảo trên bếp, để chảo thật nóng, vặn nhỏ lửa, trút thịt tôm đã giã vào sao (rang). Nếu sao quá lửa chà bông tôm sẽ bị cháy mất ngon, sao non (ít) lửa chà bông tôm sẽ mềm, không khô ráo, dễ chảy nước và khó bảo quản.

Lúc sao chà bông tôm nhớ đảo nhanh tay và đều, khi thấy các thớ thịt tôm đã tơi, cho thêm một chút hỗn hợp nước mắm đường vào để tăng thêm phần đậm đà. Tiếp tục sao cho đến khi chà bông tôm khô nổi màu vàng đỏ là được. Để nguội, cho chà bông vào hũ thủy tinh dùng dần.

Chà bông tôm có thể dùng với cơm nắm, bánh mỳ, xôi, bánh bèo…rất ngon.

Nguồn tin: Phụ nữ Online

Cây chè

Cây chè

Cây chè

Cây chè được coi là một trong những cây dài ngày có mặt rất sớm ở Lâm Đồng và hiện có diện tích lớn nhất nước. Từ năm 1927, người Hà Lan đã bắt tay xây dựng Sở trà Cầu Đất (xã Xuân Trường, Đà Lạt) với quy mô khai khẩn là 1.000ha. Năm 1930, Sở trà Cầu Đất được chuyển giao cho Công ty PIT (Plantation Indochinoise de Thé) của Pháp. Từ sở trà này cây chè phát triển ra khắp vùng Lâm Viên và cao nguyên Di Linh – Bảo Lộc. Hiện nay, toàn tỉnh có diện tích chè 25.455ha phân bổ ở Đà Lạt, Đức Trọng, Lâm Hà, Di Linh, Bảo Lâm và Bảo Lộc; trong đó Bảo Lộc và Bảo Lâm chiếm một diện tích lớn (gần 20 ngàn ha).

Từ những năm 1995 trở về trước, giống chè trồng ở Lâm Đồng chủ yếu là giống chè lai tạp trồng bằng hạt nên năng suất không cao. Liên tục nhiều năm qua, một cuộc cách mạng về giống chè đã làm thay đổi chất lượng trên các vườn chè của Lâm Đồng. Đó là các giống chè mới: TB 14, LĐ 97, LDP.1, Kim Xuyên, Tứ Quý, Thuý Ngọc, Ô Long,… trồng trên diện tích 7.215ha, chiếm 28,6% tổng diện tích chè hiện có.

Hiện nay, toàn tỉnh có 45 doanh nghiệp chế biến kinh doanh trà, riêng Công ty Chè Lâm Đồng có 7 nhà máy chế biến và 1 liên doanh với công suất 5.500 – 7.500 tấn sản phẩm/năm. Bên cạnh đó, 20 công ty đầu tư nước ngoài chế biến 7.000 – 8.000 tấn sản phẩm/năm, tương đương với 35.000 – 40.000 tấn chè búp tươi. Ngoài ra, cả tỉnh có trên 70 danh trà, công suất chế biến bình quân 1.500 kg chè tươi/ngày/cơ sở. Sản phẩm chè chế biến chủ yếu là chè đen OTD và khoảng 15% là chè xanh.

Theo kế hoạch phát triển của cây chè, đến năm 2010, Lâm Đồng sẽ nâng diện tích chè toàn tỉnh lên mức 26.000 – 28.000 ha, trong đó chè cao sản và chè chất lượng cao chiếm khoảng 48% -50%, năng suất bình quân 90 tạ/ha và sản lượng 211.500 – 252.000 tấn chè búp tươi/ năm. Một số dự án trồng mới chè chất lượng cao được triển khai ở Đà Lạt, Di Linh, Bảo Lộc và Bảo Lâm với quy mô 4.000 – 5.000 ha, đồng thời chuyển đổi khoảng 6.500 ha chè hạt sang chè cành. Hiệp hội Chè Việt Nam và cả các nước bạn khi đến Bảo Lộc cũng ghi nhận Bảo Lộc là “thủ đô chè” của Việt Nam bởi đây là “cái rốn” chè của Lâm Đồng. Nhiều danh trà lớn tồn tại hàng mấy chục năm như: Cầu Đất, Minh Rồng, Đỗ Hữu, Quốc Thái, Thiên Hương, gần đây là Trâm Anh, Tâm Châu, Haji, Fushen,… với các sản phẩm chè được người tiêu dùng trong và ngoài nước ưa chuộng.

CÂY CÀ PHÊ

Lâm Đồng có trên 200.000ha đất bazan phân bổ ở Bảo Lộc, Di Linh và một phần ở Đức Trọng, Lâm Hà, Đà Lạt phù hợp với cây công nghiệp dài ngày, nhất là cây cà phê. Do đó, đối với cây công nghiệp dài ngày của Lâm Đồng, đứng đầu bảng về diện tích phải nói tới cây cà phê, bởi cây công nghiệp cà phê có ưu thế về giá cả, sản xuất cà phê đem lại hiệu quả kinh tế cao, từ đó hình thành các vùng sản xuất lớn cây cà phê trong những năm qua là tất yếu.

Ở Lâm Đồng có thể trồng được cả 3 chủng loại cà phê: Arabica, Robusta và Charri với chất lượng tốt, đặc biệt là chủng loại cà phê Arabica ở Đà Lạt được người tiêu dùng ưa chuộng.

Tính đến năm 2005, tổng diện tích cà phê của Lâm Đồng là 117.400 ha/ tổng diện tích cây dài ngày của tỉnh 169.486 ha, trong đó hầu hết là chủng loại Robusta, diện tích cà phê kinh doanh hơn 114.152 ha. Với năng suất 18,5 tạ/ha, sản lượng cà phê nhân toàn tỉnh đạt 211.497 tấn. Hầu như cây cà phê có mặt ở 11/12 huyện, thị, thành trong tỉnh – trừ Cát Tiên hiện nay không còn cây cà phê. Vùng chuyên canh cây cà phê là các huyện Bảo Lâm (25.804ha), Di Linh (36.072ha) và Lâm Hà 32.061ha.

Hiện nay có khoảng gần 10 doanh nghiệp trong nước và liên doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thu mua khoảng 20% cà phê nhân, đánh bóng để xuất khẩu. Các cơ sở, hộ gia đình chế biến thành các sản phẩm đồ uống tiêu thụ khoảng 10% cà phê nhân, 70% cà phê nhân còn lại chủ yếu bán thô ra ngoài tỉnh.

Trước năm 1975, Đà Lạt có 5 cơ sở rang cà phê nổi tiếng là Lễ Ký, Cao Nguyên, Tùng, Đà Lạt và Sao, phục vụ cho nội tiêu. Hiện nay, các thương hiệu Lễ Ký, Vĩnh Ích, Boss,… tuy chưa được quảng bá mạnh như cà phê Trung Nguyên nhưng cũng được nhân dân địa phương và du khách ưa chọn.

CÂY DÂU TẰM

Từ những năm 1954-1956, cây dâu đã được trồng và sản xuất thử ở Blao và Djiring với diện tích 10ha. Đến năm 1962, một trung tâm giống dâu được thành lập ở Bảo Lộc đã sản xuất khoảng 300.000 hộp trứng tằm và năm 1963 sản xuất được khoảng 1 triệu hộp trứng. Đồng thời, trung tâm này còn sản xuất 2 triệu hom dâu giống để cung cấp cho các tỉnh Quảng Ngãi, An Giang, Đắc Lắc. Ngoài trung tâm này, ở Di Linh còn có trại tằm tơ Gia Lành.

Cho đến năm 1978, cây dâu ở Lâm Đồng vẫn chưa được phát triển và nghề trồng dâu nuôi tằm chưa thực sự là một nghề thu hút được đông đảo nhân dân hưởng ứng. Chỉ từ năm 1979, khi những người dân từ các tỉnh Hà Tây, Thái Bình, Hà Đông,… đến Lâm Đồng xây dựng vùng kinh tế mới đã khơi dậy nghề trồng dâu nuôi tằm ở đây. Diện tích trồng dâu tăng rất nhanh và phân bố chủ yếu tại Bảo Lộc, Di Linh, Đơn Dương và vùng kinh tế mới Hà Nội. Trong những năm 1989-1993, trồng dâu nuôi tằm đã trở thành phong trào trong nông dân và đời sống của những người làm nghề này được cải thiện rõ rệt.

Thời kỳ thịnh vượng nhất của nghề dâu tằm Lâm Đồng là năm 1994, với diện tích dâu là 17.500ha, gấp hàng chục lần so với năm 1975 và chiếm tới 50% diện tích dâu của toàn quốc.

Cũng chính vào những năm này, Bảo Lộc được mệnh danh là “thủ đô dâu tằm” của cả nước với các nhà máy ươm tơ, dệt lụa hiện đại.

Tuy nhiên, sự phát triển thuận lợi đó nhanh chóng bị chấm dứt ngay từ năm 1995-1996 bởi ảnh hưởng của sự giảm mạnh giá tơ trên thế giới và những lý do chủ quan khác của Tổng công ty dâu tằm tơ.

Bắt đầu từ năm 1999, ngành dâu tằm tơ mới có dấu hiệu khôi phục dần. Đến cuối năm 2000, diện tích trồng dâu trong tỉnh đã tăng lên 3.644ha.

Đăng tin: Xuân Trường

Nguồn tin: Lâm Đồng_Đà Lạt

Cá rô đồng nấu hèm

Cá rô đồng thịt béo, thơm ngon; thường sinh sống nơi ruộng lúa, ao, mương, sông rạch… Ở Cần Thơ quê tôi, người ta hay nói “nhất rô, nhì trê, tam sặt”.

Cá rô đồng thường được chế biến thành nhiều món ngon độc đáo, từ kho tộ, nướng, chiên cho đến canh chua, canh cải bẹ xanh, kho mắm… món nào cũng hấp dẫn thơm ngon, nhưng có lẽ lạ miệng và khoái khẩu nhất là cá rô nấu với hèm. Hèm là thứ bã rượu- thứ phẩm nấu từ gạo hoặc nếp mà dân gian cho rằng trong đó có vị thuốc và giá trị dinh dưỡng khá cao.

Chọn khoảng 1 kg cá rô mề tươi (từ 100 – 150 g/con), làm sạch, ướp với nước màu, tiêu, hành lá, tỏi, ớt, đường, nước mắm, để khoảng 10 phút. Sau đó cho vào nồi, dùng nước hèm bỏ bã đổ lên xăm xắp. Khi cá sôi một lúc, để lửa liu riu đến khi cá chín, thấm. Cũng có thể làm món này theo kiểu nấu lẩu.

Cá rô vừa ngọt, vừa béo nhưng không ngấy, thịt thơm mềm. Món ăn nóng tỏa hương thơm phức, điểm thêm vài lát ớt và ít cọng ngò om, chỉ nhìn thôi đã thèm.

Cá rô nấu hèm ăn chung với bún hoặc cuốn bánh tráng, thêm các loại rau vườn như đọt cải trời, dưa leo, chuối chát hoặc dưa bồn bồn, bông súng … chấm nước mắm nguyên chất với ớt cay mới đúng điệu.

Nguồn tin: Phụ nữ Online

Canh chua cá linh cơm mẻ

Như một sự sắp đặt kỳ diệu của thiên nhiên, mỗi khi nước lũ tràn về trắng xóa đồng bằng sông Cửu Long (khoảng tháng 7 – 10 Âm lịch) và mùa cá linh bắt đầu, đồng thời cũng là lúc bông điên điển vàng tươi nở rộ.

Canh chua cá linh bông điên điển

Canh chua cá linh bông điên điển

Con cá linh dân dã, bình dị đã giúp nhiều người dân nơi đây vượt qua cơn túng ngặt trong những ngày “sống chung với lũ”. Cá linh vào vụ giá tương đối rẻ nên được các bà nội trợ ưa chuộng. Cá linh có thể chế biến nhiều món ăn như: kho lạt, kho khô, kho mía, làm chả…. Nhưng, “đúng điệu” nhất là món cá linh nấu canh chua bông điên điển.

Cá linh đánh bắt được hay mua ở chợ về phải lựa cá thật tươi (cá linh non càng ngon, vì có thể ăn luôn cả xương!). Làm cá chỉ cần móc hầu, bỏ ruột, cắt vây, kỳ, đuôi (không cắt đầu, đánh vảy), rửa sạch, để ráo. Bông điên điển lặt cuống, rửa sạch để ra rổ. Đổ nước vào nồi nấu sôi. Cơm mẻ (hay me chín cũng được) cho vào vợt lược, nhúng vào nồi. Dùng vá nghiền cho cơm mẻ hòa tan. Nêm gia vị (muối, đường, bột ngot…) cho vừa khẩu vị. Tăng lửa cho nước sôi bùng lên, thả cá linh vào, chờ cá chín thả tiếp bông điên điển vào, nêm lần cuối và nhấc xuống ngay (đừng để bông điên điển chín mềm mất ngon). Xắt nhuyễn lá ngò om (hoặc ngò gai), cho thêm vài lát ớt sừng chín vào nồi là xong.

Gắp một con cá linh kèm với vài bông điên điển, chấm vào chén nước mắm nguyên chất có dằm vài trái ớt hiểm, đưa vào miệng nhai chậm rãi. Vị béo của cá hòa với vị ngọt, giòn đặc trưng của bông điên điển, vị cay the nhưng không nồng của ớt thấm vào vị giác.. và thêm một miếng cơm nóng có chan vài muỗng canh chua, lùa một hơi… bạn sẽ cảm nhận được hương vị tuyệt vời, khó quên của quê hương vùng lũ!

Nguồn tin: Phụ nữ Online

Cá lóc nướng cuốn lá sen non

Cá lóc nướng cuốn lá sen non là một món ngon hình như chỉ ở vùng Cao Lãnh, Đồng Tháp Mười và vài nơi có trồng sen mới có; bởi lá sen non tươi, mới hái cuốn cá lóc mới “chất lượng”.

Cá lóc nướng cuốn lá sen non

Cá lóc nướng cuốn lá sen non

Chọn cá lóc chừng non một kí trở lại còn tươi sống, rửa sạch cho vào thau rồi rải đều một lớp muối hột lên trên, đậy kín lại. Một lúc sau, cá vùng vẫy sẽ sạch chất nhờn. Lấy một que tre vót nhọn xiên cá từ miệng đến đuôi, quấn cá kín lại bằng hai ba lớp lá sen. Nhớ chọn lá sen còn tươi có màu xanh thẫm (lá già).

Cho cá lên bếp than hồng nướng, xoay trở cá cho chín đều. Khi lá cháy hết cũng là lúc cá chín. Cá chín nhờ hơi nóng của lá sen tươi toả ra như hấp. Cách nướng này không làm da cá bị cháy khét như nướng trui.

Đem cá xuống dĩa, banh sống lưng cá ra, rút bỏ xương, phết mỡ hành, rắc đậu phộng giã giập lên, cuốn cá với lá sen non (thay bánh tráng) còn búp hoặc mới bung lá ra với các loại rau ghém, bún, thịt ba rọi sắc bản mỏng, tôm tép lột, chấm cùng nước mắm nêm được pha chế cho vừa ăn. Da cá vừa béo vừa giòn, thịt cá ngọt, thơm bùi, ruột cá đắng dịu, vị lá sen non chát nhẹ, thoang thoảng mùi hương sen, món đặc sản hấp dẫn này đã làm nhiều khách sành ẩm thực phải “tương tư”!

Nguồn tin: Phụ nữ Online

Cá linh kho mía

Mỗi năm khi nước lũ tràn về trắng xóa cánh đồng và bông điên điển đua nhau nở rộ một màu vàng bập bềnh trên sóng nước, cũng là thời điểm vào mùa cá linh …

Cá linh kho mía

Cá linh kho mía

Năm nay lũ về đồng bằng sông Cửu Long muộn, nên người dân nơi đây đang nóng lòng chờ đợi mùa cá linh, vì nguồn cá linh mùa lũ đã giúp nhiều gia đình cải thiện đời sống.

Trong ký ức của tôi vẫn còn nhớ khi ngọn gió chướng thổi trên những tàng cây ngọn lá, khi trời hãy còn mờ sương sớm ba tôi đã vác chài đi men theo bờ rạch tìm bắt cá linh. Vài giờ sau ba trở về với lưng lửng thùng cá. Má tôi vội vàng đổ cá vào rổ, lựa những con cá to cỡ ngón tay cái để ăn – má giải thích cá linh cành lớn thịt càng béo và thơm ngon, còn con bé thì thường tanh…Nhìn những con cá linh bụ bẫm, vẩy màu trắng bạc nhảy trong rổ trông thật đẹp…

Má tôi nấu món cá linh là ngon nhất… Bữa nào ba về có cá linh là y như bữa đó má có dịp để bận bịu. Tôi ra vườn chặt ngay một cây mía, róc bỏ vỏ, chẻ từng miếng nhỏ một cho riêng vào một cái rổ. Anh hai phụ giúp bằng việc leo hái trái dừa xiêm chặt lấy nước dùng. Cá linh má chỉ moi ruột, rửa sạch để ráo, không đánh vẩy bỏ đầu, vì má bảo khi kho mía vẩy, đầu cá sẽ rất mềm và ngon.

Sau khi mọi thứ đã chuẩn bị xong, má ướp cá với gia vị (đường, muối, bột ngọt, đầu hành lá giã nhuyễn, một ít nước mắm ngon…) chờ khoảng 15 phút cho thấm. Má xếp sẵn mía (đã chẻ) thành một lớp dưới đáy nồi, rồi cho cá, nước dừa xiêm vào ngập xâm xấp. Để cá thấm đều gia vị má dùng vĩ tre chèn trên mặt để cá ngập đều trong nước dừa, đậy nắp vung lại đặt nồi lên bếp đun với ngọn lửa riu riu cho đến khi nước dừa rút cạn, cá chín, xương mềm rục là được (khoảng 5 tiếng). Cuối cùng má tôi cho thêm vào một ít tiêu xay, vài trái ớt hiểm chín, thế là xong…

Bữa cơm đạm bạc được dọn lên, độc nhất có dĩa cá linh kho mía với tô nước cơm làm canh. Tôi dùng đũa gắp cá linh cho vào miệng nhai chậm rãi, mùi thơm đăc trưng quyến rũ của nước dừa, đường mía hòa quyện với vị béo, ngọt, mềm của thịt và xương cá linh lan tỏa, thấm dần vào vị giác khiến tôi ăn một bữa no mà bụng vẫn còn thòm thèm. Nồi cá ăn không hết, má để dành sáng hôm sau hâm lại, và bảo tôi đạp xe ra chợ mua bánh mì về ăn sáng với cá linh… ngon vô cùng.

Ba tôi nay đã thành người thiên cổ, má giờ đã già yếu, việc bếp núc nay đã có người đảm trách. Mùa lũ năm nay lại về, mỗi khi đi chợ bắt gặp người bán cá linh, lòng tôi lại bâng khuâng nhớ về quê nhà da diết, và nhất là món “cá linh kho mía” của má năm xưa…

Nguồn tin: Phụ nữ Online

Cá linh kho bứa

Mùa nước nổi cũng là mùa cá linh. Hằng năm, vào khoảng tháng 6, tháng 7 âm lịch, cá linh non thường xuất hiện ở đầu nguồn sông Tiền và sông Hậu. Bữa cơm của người miền Tây khi ấy trở nên hấp dẫn hơn với những món ngon từ cá linh.

Bữa tiệc cá linh kho bứa

Bữa tiệc cá linh kho bứa

Cá linh non chỉ lớn bằng đầu đũa hoặc đầu ngón tay nhưng rất thơm ngon và béo ngọt. Cá càng tươi thịt càng ngọt, mùi vị đặc trưng. Loài cá bé nhỏ này làm món gì cũng ngon, từ chiên giòn, kho mắm cho tới nấu canh chua…Nhưng có một món ít người biết đến, đó là món cá linh kho bứa, dù là người khó tính cỡ nào, thưởng thức món này một lần cũng phải gật gù tán thưởng.

Cá linh kho bứa ngon là nhờ vị chua thanh, ngòn ngọt của trái bứa, một loại trái rừng to như trái chanh, ruột đặc, nhiều múi, khi nấu chín hương vị trở nên rất đậm đà.

Cá linh kho mẳn dầm bứa

Cây bứa mọc nhiều ở vùng Khánh An, Khánh Bình, huyện An Phú, An Giang. Trái bứa được người Chăm coi như một thứ gia vị truyền thống dùng để kho cá, nấu canh chua, làm nước mắm sả chấm các món nướng như chuột nướng, cá nướng…Trái bứa có thể dùng tươi, phơi khô hoặc ướp muối làm dưa để dành ăn quanh năm.

Khi kho cá linh, lúc nồi cá vừa sôi, người ta cho vào một hoặc hai trái bứa tươi kèm thêm vài trái ớt hiểm. Đợi cho bứa chín mềm mới dầm như dầm me rồi tiếp tục kho cá. Vị chua của bứa hòa vào vị mằn mặn, ngọt cay của cá, ăn rất… đưa cơm.

Trái bứa tươi

Cá linh kho bứa có thể ăn kèm với rau thơm, chuối chát, rau ghém bắp chuối, hấp dẫn nhất là bông súng và bông điên điển. Người dân miền Tây hay nói vui rằng chỉ có trái bứa mới đủ phong độ nâng món cá linh lên hàng “mỹ vị”.

Nguồn tin: Phụ nữ Online

Cá linh kho bứa

Mùa nước nổi cá linh về, những năm lũ về muộn cá linh hiếm hoi, có người nhân giống cá trôi đem ra chợ rao bán như cá linh thật mà giá cả trăm ngàn đồng một ký. Cá linh thật kho mẳn dầm trái bứa, dù khó tính cỡ nào, thưởng thức một lần cũng phải gật đầu khen ngon.

Cá linh kho mẳn dầm trái bứa, dù khó tính cỡ nào, thưởng thức một lần cũng phải khen ngon.

Cá linh kho mẳn dầm trái bứa, dù khó tính cỡ nào, thưởng thức một lần cũng phải khen ngon.

Nhiều du khách sành điệu, đến An Giang thường lân la những quán ven sông, coi cách đánh bắt, mua ngay trên xuồng, đưa vô quán nấu liền để tận hưởng mùi vị cá linh non đầu mùa, mỗi năm chỉ xuất hiện có một lần.

Các lão nông ở huyện đầu nguồn An Phú quả quyết trái bứa làm gì cũng ngon, đặc biệt là món cá linh kho mẳn dầm bứa, mùi vị của nó ăn đứt món cá linh bằm xoài hoặc me non. Trái bứa ngon là nhờ vị chua thanh, ngòn ngọt. Bứa là trái rừng to như trái chanh, ruột đặc nhiều múi, khi nấu chín hương vị trở nên đậm đà. Khi trái còn sống thì màu xanh và lúc chín trở nên vàng óng ả. Loại bứa này được người Chăm và người Khmer ở vùng Khánh An, Khánh Bình, huyện An Phú, An Giang coi như một thứ gia vị truyền thống dùng kho cá, nấu canh chua, làm nước mắm sả để chấm các món nướng, hấp dẫn nhất là chuột nướng, cá nướng…

Đặc biệt, hàng năm khi mùa lũ về cũng là mùa bứa bắt đầu. Trái bứa có thể dùng tươi, phơi khô hoặc ướp muối làm dưa để dành ăn suốt năm. Với món cá linh kho, khi nồi cá vừa sôi lên, người ta cho vào hai, ba trái bứa tươi kèm thêm vài trái ớt hiểm. Đợi cho bứa chín mềm mới dùng đũa giằm ra như giằm me. Vị chua của bứa hoà tan vào vị mằn mặn, ngòn ngọt, cay cay của nồi cá tạo thành một thứ hương vị thơm đáo để. Có thể giằm thêm nhiều hay ít bứa ngoài chén nước mắm để gia giảm độ chua tuỳ ý thích.

Cá linh non chỉ lớn bằng đầu đũa nhưng thơm ngọt và béo tuyệt. Cá càng tươi thịt càng ngọt, mùi vị đặc trưng không nhầm lẫn vào đâu được. Loài cá non này làm gì cũng ngon, từ món chiên giòn, kho mẳn, kho mắm cho tới nấu canh chua… món nào cũng khoái khẩu. Để thêm hương vị, có thể ăn kèm với rau thơm, chuối chát, rau ghém bắp chuối và hấp dẫn nhất là bông súng và bông điên điển. Tất cả đều là hương đồng cỏ nội, càng làm cho bữa ăn thêm đậm đà thi vị.

Nguồn tin: Phụ nữ Online

Cá kho quẹt – món ăn mùi nhớ

Cá kho quẹt – món ăn mùi nhớ

Cá kho quẹt – món ăn mùi nhớ

Nồi kho quẹt chỉ toàn là cá lòng tong, cá bống, cá kèo, tép rong… thi thoảng có vài khứa cá lóc, cá trê, cục thịt mỡ… từ hôm trước.

Mẹ tôi cho tất cả vào một cái ơ đất, ướp chút đường rồi đổ nước mắm vào, thêm mỡ, hành và vài ba trái ớt hiểm đỏ chót cho ngon mắt…

Lửa liu riu cho đến khi nước sắc lại, sền sệt rồi rắc tiêu vào, mùi thơm lừng. Nước mắm là linh hồn của nồi cá kho quẹt, vì vậy mẹ tôi thường chọn loại nước cốt từ những khạp mắm cá đồng để kho, tạo thành một thứ nước đặc sệt, thơm thấu trời xanh, chỉ ngửi thôi cũng thấy đã rồi. Những lúc mẹ tôi chỉ kho nước mắm, thêm chút mỡ hành cho quéo lại, màu vàng rực, mùi khen khét, “nghe” cái mùi này là đói tới óc o.

Món kho quẹt hấp dẫn nhất là ăn với gạo lúa thơm hoặc cơm cháy. Một tay cầm đũa quẹt nước mắm, một tay cầm trái dưa leo cắn cái bụp, nghe giòn rụm, thật đậm đà và thi vị làm sao! Có như thế mới tận hưởng hết cái mùi vị “nhà nghèo”.

Tôi đã thử vào quán gọi món cá kho quẹt, mùi phưng phức, đậm đà, xoáy sâu vào mũi và không hiểu tại sao tôi lại nhớ đến cái gian bếp ám khói nhà mình và hình ảnh mẹ tôi rị mọ lo cơm chiều. Cái ơ đất màu đen sậm mới lạ làm sao, khó tả khi cái hơi nóng ấm trái tai. Món ăn ngon của mẹ tôi, dù kham khổ cũng phải đủ ngũ sắc và ngũ vị, nhưng món kho quẹt chỉ có màu vàng phù sa, thơm mùi nước mắm.

Đăng tin: Văn Lâm

Nguồn tin: Sài Gòn Tiếp Thị

Cá kèo kho dưa cải

Cá kèo là loại cá sinh sản và phát triển ở môi trường tự nhiên vùng nước lợ. Những địa danh gắn liền với con cá kèo là Năm Căn, Cái Nước, Giá Rai (Cà Mau).

Cá kèo kho dưa cải

Cá kèo kho dưa cải

Cá kèo xuất hiện vào mùa mưa (nhiều nhất vào con nước rong), khi những hang ổ trú ngụ của chúng bị chìm sâu dưới nước, những còn cá kèo sẽ đi theo dòng chảy nổi trên các kênh rạch…Và đó cũng là mùa đánh bắt cá kèo.

Cá kèo chế biến được nhiều món ăn đặc trưng của miền đồng bằng sông nước Cửu Long: Cá kèo kho mẳn, nấu canh chua, nhúng lẩu, kho mắm, làm khô… nhưng đặc biệt dân dã và dễ làm là: Cá kèo kho dưa cải. Ai ăn cá kèo mà không ăn được bộ ruột cá kể như chưa phải là người “sành điệu” về ẩm thực vì hương vị đặc biệt khó quên: béo thơm, đăng đắng do mật cá tiết ra.

Cho cá kèo tươi sống vào rổ. Xé nhỏ lá chuối tươi bỏ lên trên và dùng tay chà xát, xả nước lạnh vài lần cho sạch nhớt. Dùng dao cắt bỏ phần miệng và đuôi cá, giữ lại bụng và ruột. Làm thịt cá kèo không được dùng muối chà xát cũng như cắt cá ra làm đôi, vì như thế khi chế biến cá sẽ cứng, mất ngon.

Dưa cải (chọn loại dưa chua) rửa sạch, bỏ lá lấy cọng, xắt mỏng vắt ráo. Cho dưa cải vào chảo xào với mỡ heo và tỏi cho thơm. Đổ nước lạnh vào ngập xăm xắp với dưa cải và cho gia vị (nước mắm, bột ngọt, đường, nước màu…) vừa ăn. Điều chỉnh lửa liu riu cho đến khi nước ướp thấm vào dưa cải mới cho cá kèo vào. Cá chín, nhấc chảo xuống. Rắc thêm một ít hành lá xắt nhuyễn, vài trái ớt hiểm và chút tiêu xay.

Món này dùng nóng với cơm, ăn rất “bắt”.

Nguồn tin: Phụ nữ Online