Cây chè
Cây chè được coi là một trong những cây dài ngày có mặt rất sớm ở Lâm Đồng và hiện có diện tích lớn nhất nước. Từ năm 1927, người Hà Lan đã bắt tay xây dựng Sở trà Cầu Đất (xã Xuân Trường, Đà Lạt) với quy mô khai khẩn là 1.000ha. Năm 1930, Sở trà Cầu Đất được chuyển giao cho Công ty PIT (Plantation Indochinoise de Thé) của Pháp. Từ sở trà này cây chè phát triển ra khắp vùng Lâm Viên và cao nguyên Di Linh – Bảo Lộc. Hiện nay, toàn tỉnh có diện tích chè 25.455ha phân bổ ở Đà Lạt, Đức Trọng, Lâm Hà, Di Linh, Bảo Lâm và Bảo Lộc; trong đó Bảo Lộc và Bảo Lâm chiếm một diện tích lớn (gần 20 ngàn ha).
Từ những năm 1995 trở về trước, giống chè trồng ở Lâm Đồng chủ yếu là giống chè lai tạp trồng bằng hạt nên năng suất không cao. Liên tục nhiều năm qua, một cuộc cách mạng về giống chè đã làm thay đổi chất lượng trên các vườn chè của Lâm Đồng. Đó là các giống chè mới: TB 14, LĐ 97, LDP.1, Kim Xuyên, Tứ Quý, Thuý Ngọc, Ô Long,… trồng trên diện tích 7.215ha, chiếm 28,6% tổng diện tích chè hiện có.
Hiện nay, toàn tỉnh có 45 doanh nghiệp chế biến kinh doanh trà, riêng Công ty Chè Lâm Đồng có 7 nhà máy chế biến và 1 liên doanh với công suất 5.500 – 7.500 tấn sản phẩm/năm. Bên cạnh đó, 20 công ty đầu tư nước ngoài chế biến 7.000 – 8.000 tấn sản phẩm/năm, tương đương với 35.000 – 40.000 tấn chè búp tươi. Ngoài ra, cả tỉnh có trên 70 danh trà, công suất chế biến bình quân 1.500 kg chè tươi/ngày/cơ sở. Sản phẩm chè chế biến chủ yếu là chè đen OTD và khoảng 15% là chè xanh.
Theo kế hoạch phát triển của cây chè, đến năm 2010, Lâm Đồng sẽ nâng diện tích chè toàn tỉnh lên mức 26.000 – 28.000 ha, trong đó chè cao sản và chè chất lượng cao chiếm khoảng 48% -50%, năng suất bình quân 90 tạ/ha và sản lượng 211.500 – 252.000 tấn chè búp tươi/ năm. Một số dự án trồng mới chè chất lượng cao được triển khai ở Đà Lạt, Di Linh, Bảo Lộc và Bảo Lâm với quy mô 4.000 – 5.000 ha, đồng thời chuyển đổi khoảng 6.500 ha chè hạt sang chè cành. Hiệp hội Chè Việt Nam và cả các nước bạn khi đến Bảo Lộc cũng ghi nhận Bảo Lộc là “thủ đô chè” của Việt Nam bởi đây là “cái rốn” chè của Lâm Đồng. Nhiều danh trà lớn tồn tại hàng mấy chục năm như: Cầu Đất, Minh Rồng, Đỗ Hữu, Quốc Thái, Thiên Hương, gần đây là Trâm Anh, Tâm Châu, Haji, Fushen,… với các sản phẩm chè được người tiêu dùng trong và ngoài nước ưa chuộng.
CÂY CÀ PHÊ
Lâm Đồng có trên 200.000ha đất bazan phân bổ ở Bảo Lộc, Di Linh và một phần ở Đức Trọng, Lâm Hà, Đà Lạt phù hợp với cây công nghiệp dài ngày, nhất là cây cà phê. Do đó, đối với cây công nghiệp dài ngày của Lâm Đồng, đứng đầu bảng về diện tích phải nói tới cây cà phê, bởi cây công nghiệp cà phê có ưu thế về giá cả, sản xuất cà phê đem lại hiệu quả kinh tế cao, từ đó hình thành các vùng sản xuất lớn cây cà phê trong những năm qua là tất yếu.
Ở Lâm Đồng có thể trồng được cả 3 chủng loại cà phê: Arabica, Robusta và Charri với chất lượng tốt, đặc biệt là chủng loại cà phê Arabica ở Đà Lạt được người tiêu dùng ưa chuộng.
Tính đến năm 2005, tổng diện tích cà phê của Lâm Đồng là 117.400 ha/ tổng diện tích cây dài ngày của tỉnh 169.486 ha, trong đó hầu hết là chủng loại Robusta, diện tích cà phê kinh doanh hơn 114.152 ha. Với năng suất 18,5 tạ/ha, sản lượng cà phê nhân toàn tỉnh đạt 211.497 tấn. Hầu như cây cà phê có mặt ở 11/12 huyện, thị, thành trong tỉnh – trừ Cát Tiên hiện nay không còn cây cà phê. Vùng chuyên canh cây cà phê là các huyện Bảo Lâm (25.804ha), Di Linh (36.072ha) và Lâm Hà 32.061ha.
Hiện nay có khoảng gần 10 doanh nghiệp trong nước và liên doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thu mua khoảng 20% cà phê nhân, đánh bóng để xuất khẩu. Các cơ sở, hộ gia đình chế biến thành các sản phẩm đồ uống tiêu thụ khoảng 10% cà phê nhân, 70% cà phê nhân còn lại chủ yếu bán thô ra ngoài tỉnh.
Trước năm 1975, Đà Lạt có 5 cơ sở rang cà phê nổi tiếng là Lễ Ký, Cao Nguyên, Tùng, Đà Lạt và Sao, phục vụ cho nội tiêu. Hiện nay, các thương hiệu Lễ Ký, Vĩnh Ích, Boss,… tuy chưa được quảng bá mạnh như cà phê Trung Nguyên nhưng cũng được nhân dân địa phương và du khách ưa chọn.
CÂY DÂU TẰM
Từ những năm 1954-1956, cây dâu đã được trồng và sản xuất thử ở Blao và Djiring với diện tích 10ha. Đến năm 1962, một trung tâm giống dâu được thành lập ở Bảo Lộc đã sản xuất khoảng 300.000 hộp trứng tằm và năm 1963 sản xuất được khoảng 1 triệu hộp trứng. Đồng thời, trung tâm này còn sản xuất 2 triệu hom dâu giống để cung cấp cho các tỉnh Quảng Ngãi, An Giang, Đắc Lắc. Ngoài trung tâm này, ở Di Linh còn có trại tằm tơ Gia Lành.
Cho đến năm 1978, cây dâu ở Lâm Đồng vẫn chưa được phát triển và nghề trồng dâu nuôi tằm chưa thực sự là một nghề thu hút được đông đảo nhân dân hưởng ứng. Chỉ từ năm 1979, khi những người dân từ các tỉnh Hà Tây, Thái Bình, Hà Đông,… đến Lâm Đồng xây dựng vùng kinh tế mới đã khơi dậy nghề trồng dâu nuôi tằm ở đây. Diện tích trồng dâu tăng rất nhanh và phân bố chủ yếu tại Bảo Lộc, Di Linh, Đơn Dương và vùng kinh tế mới Hà Nội. Trong những năm 1989-1993, trồng dâu nuôi tằm đã trở thành phong trào trong nông dân và đời sống của những người làm nghề này được cải thiện rõ rệt.
Thời kỳ thịnh vượng nhất của nghề dâu tằm Lâm Đồng là năm 1994, với diện tích dâu là 17.500ha, gấp hàng chục lần so với năm 1975 và chiếm tới 50% diện tích dâu của toàn quốc.
Cũng chính vào những năm này, Bảo Lộc được mệnh danh là “thủ đô dâu tằm” của cả nước với các nhà máy ươm tơ, dệt lụa hiện đại.
Tuy nhiên, sự phát triển thuận lợi đó nhanh chóng bị chấm dứt ngay từ năm 1995-1996 bởi ảnh hưởng của sự giảm mạnh giá tơ trên thế giới và những lý do chủ quan khác của Tổng công ty dâu tằm tơ.
Bắt đầu từ năm 1999, ngành dâu tằm tơ mới có dấu hiệu khôi phục dần. Đến cuối năm 2000, diện tích trồng dâu trong tỉnh đã tăng lên 3.644ha.
Đăng tin: Xuân Trường
Nguồn tin: Lâm Đồng_Đà Lạt